Theo bà Thùy Trang, cần có kiến thức thời trang để liên kết thời trang với sự chuyển động của xã hội, đồng thời vá lỗ hổng trong thị trường thời trang.
Bà Bùi Ngọc Thùy Trang hiện là giảng viên Trường Đại học Hoa Sen, TP.HCM, phụ trách chuyên ngành Kinh doanh Thời trang, hợp tác sư phạm với trường College de Paris, Pháp. Bà tốt nghiệp Thạc sĩ Quản lý thời trang trường ESMOD Paris. Ngoài giảng dạy, bà từng làm việc ở phòng thương mại của đại sứ quán Pháp, quản lý thương hiệu cho một số doanh nghiệp quốc tế tại Việt Nam trong lĩnh vực thời trang, công nghệ, lifestyle.
Sau tám năm sinh sống và học tập tại những trường đại học hàng đầu của Pháp như Sorbonne, Paris II, ESMOD Paris và trở về Việt Nam, bà đã ứng dụng kiến thức, kỹ năng và biến hóa gì vào thị trường thời trang nội địa?
Sau tám năm học tập tại các trường đại học danh tiếng của Pháp như Sorbonne, Paris II, ESMOD Paris, tôi đã tích lũy được những kiến thức cơ bản về nguyên lý vận hành của ngành thời trang. Tuy nhiên, tôi nhận thấy rằng những kiến thức nền tảng này chỉ là bước khởi đầu trong hành trình phát triển. Để đạt được hiệu quả thực sự, chúng ta cần không ngừng cập nhật và kết hợp những kiến thức này với sự thay đổi không ngừng của các xu hướng thời trang, sự tiến bộ của công nghệ, cũng như mở rộng ra các mối liên kết với những lĩnh vực khác như thiết kế nội thất, điện ảnh hay các xu hướng văn hóa đặc thù của từng địa phương. Thời trang là một lĩnh vực có tính liên ngành rất cao, và tôi đặc biệt tâm đắc với quan niệm rằng mỗi bộ sưu tập thời trang không chỉ đơn thuần là sản phẩm, mà là một câu chuyện phản ánh văn hóa, xã hội, các xu hướng nghệ thuật đương đại và kỳ vọng của người tiêu dùng. Việc hiểu rõ bối cảnh xã hội và văn hóa sẽ giúp sinh viên phát triển tư duy sâu sắc và toàn diện về xu hướng thời trang và thị trường, điều mà tôi luôn cố gắng truyền tải trong quá trình giảng dạy.
Tại Việt Nam, ngành thời trang hiện vẫn chưa đạt được mô hình kinh doanh toàn cầu. Một số điểm còn thiếu sót, đặc biệt là thiếu các kênh phân phối trung gian dành riêng cho các nhà thiết kế, và thiếu những tổ chức hiệp hội như hội nhà thiết kế để hỗ trợ một cách toàn diện và thực tế. Những tổ chức này có thể đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối nhà thiết kế với các nhà đầu tư, một điều mà ngành công nghiệp thời trang tại Pháp hay các quốc gia phát triển khác đã làm rất tốt. Tại các quốc gia này, nhà thiết kế đóng một mức phí cho các hiệp hội và nhận lại những quyền lợi xứng đáng, như cơ hội trình diễn bộ sưu tập tại các Fashion Week lớn, hay đưa sản phẩm vào các showroom, giúp họ tiếp cận thị trường quốc tế. Mục tiêu của tôi, trong vai trò là người tư vấn và giảng dạy kinh doanh thời trang, là xây dựng một thế hệ và cộng đồng có thể lấp đầy những khoảng trống này bằng kiến thức vững vàng và tư duy thời trang chuẩn mực, nhằm tạo ra sự phát triển bền vững cho ngành thời trang trong nước.
Dọc theo các con đường như Nguyễn Trãi hay Cách Mạng Tháng 8, tôi nhận thấy rất nhiều shop thời trang được mở ra, nhưng để tìm được những cửa hàng có bản sắc, hình ảnh khác biệt thực sự đã rất khó. Thậm chí, việc tìm ra những cửa hàng có quy trình quản trị bài bản từ góc độ kinh doanh và tài chính để có thể phát triển bền vững lại càng khó khăn hơn. Đây chính là những yếu tố mà thị trường thời trang Việt Nam hiện vẫn còn thiếu. Hàng ngày, tại Việt Nam, có đến hàng nghìn kênh, website, shop online và offline được thành lập, nhưng rất ít local brand có thể vận hành và quản lý bài bản để tồn tại lâu dài. Chính vì vậy, tôi mong muốn đào tạo một thế hệ nhân sự mới cho ngành thời trang, không chỉ cung cấp kiến thức về kinh doanh mà còn giúp các em hiểu sâu sắc về văn hóa thời trang và các chiến lược marketing, từ đó phát triển tư duy sáng tạo và khả năng kết nối ngành thời trang với những xu hướng xã hội hiện đại.
Bà nghĩ sao về quan điểm tâm lý khách hàng thời trang có sự thay đổi lớn sau đại dịch, mọi người ưa chuộng thời trang mang tính ứng dụng nhiều hơn?
Thật ra tâm lý khách hàng nhiều lĩnh vực đều đã thay đổi chứ không riêng khách hàng thời trang. Sau dịch mọi người trải qua cơn biến động tài chính và sức khỏe, còn riêng về thời trang, đôi khi họ sẽ rất cân nhắc cho vừa túi tiền chứ không mua sắm quá độ như trước đây theo lối sống được gọi là “overconsumption”– tiêu thụ quá mức. Trang phục bây giờ phải giải quyết nhu cầu ăn mặc nhưng chỉ cần tối giản, thiết yếu, đi theo xu hướng wardrobe essentials (các món đồ thiết yếu trong tủ quần áo) đem lại lối sống tối giản làm cho người ta ra quyết định mua sắm cũng dễ hơn. Những nhãn hàng xa xỉ gắn với lối sống xa hoa trước đó cũng đi theo xu hướng “giàu ngầm”, “sang trọng thầm lặng”. Không còn phổ biến cách làm thương hiệu của các nhãn hàng xa xỉ như bán những sản phẩm khan hiếm với mức giá cao, khiến người tiêu dùng bị tác động rơi vào cơn sốt mua hàng, phải mua cho bằng được chỉ vì sự yêu thích. Ngay cả các mặt hàng thời trang nhanh cũng vậy, ít có chuyện hàng lên kệ chì 2- 3 tuần là hết, nhiều người mua sắm quá độ, có những món hàng họ mua mà không dùng đến như trước đây. Thêm một sự thay đổi là sau dịch người ta bắt đầu quen với mô hình mua bán online. Thời trang ứng dụng, đi sát nhu cầu thực tế được ưa chuộng hơn.
Thương mại điện tử phát triển, những thương hiệu thời trang toàn cầu giá tốt như Mango, H&M, Zara,… tràn vào Việt Nam, bà tư vấn thế nào cho các thương hiệu thời trang nội địa thích nghi tình thế mới và trụ vững?
Gần đây có nhiều cửa hàng thời trang bán lẻ phải đóng cửa hoặc sell off, thứ nhất do tình hình kinh tế cả thế giới nói chung đang đi xuống, nhìn lại để thấy bức tranh thời trang nhanh, thời trang cho giới trẻ đang bị bão hòa. Trong điều kiện kinh tế vốn đã khó khăn, nếu nhìn lại về sự cạnh tranh thì mình lại thấy đôi khi những doanh nghiệp thời trang chưa tìm được điểm mấu chốt cạnh tranh, ví dụ sản phẩm của họ là những mẫu đồ unisex nhưng nó cũng dễ copy ở đâu đó hoặc các thương hiệu chưa tìm được phong cách riêng.
Để tồn tại trong bối cảnh bây giờ, các local brand phải cố gắng tạo ra bản sắc thật khác biệt, đôi khi yếu tố bản địa, yếu tố Việt Nam cần được khai thác. Một số thương hiệu có thể kể đến là Luu Viet Anh, một thương hiệu Việt Nam về túi xách với kiểu dáng rất thời thượng và mỗi chiếc túi là câu chuyện gìn giữ văn hóa Việt,đã tạo được tiếng vang trong cộng đồng Thời trang. Mỗi chiếc túi là sự cân bằng giữa tính ứng dụng cao, mức giá vừa phải và câu chuyện về văn hóa
Tôi cũng nhớ thời gian trước có một thương hiệu thời trang bền vững của chị Thảo Nguyễn là Kilomet 109, vừa đi theo xu hướng bền vững vừa có điểm khác biệt là tạo ra những trang phục bằng chất nhuộm tự nhiên bằng cây cỏ Việt Nam, đặc biệt là kỹ năng nhuộm chàm. Chị làm việc với những người thuộc dân tộc thiểu số để tạo ra sản phẩm đó. Như vậy ít nhất là về sự đầu tư khác biệt nó phải có những yếu tố riêng giống như vậy thì khi người ta nhớ đến thương hiệu mới cảm thấy sự riêng biệt. Tức là chọn thời trang bền vững đã là một lối đi và ngay trong thời trang bền vững cũng cần phải có điểm mấu chốt cạnh tranh, có bản sắc thương hiệu rõ rệt.
Một mẫu hàng, một bộ sưu tập thời trang từ thiết kế, sản xuất, bán ra, thường có vòng đời tồn tại là 3 năm nhưng trên thực tế cao điểm bán được hàng chỉ trong 6 tháng. Cho nên có sự cạnh tranh rất cao giữa các mẫu mã và các nhãn hàng.
Những người muốn kinh doanh thời trang nghiêm túc, lâu dài tại thị trường Việt Nam hiện nay cần có gì?
Họ cần phải có tư duy về quản trị thương hiệu, kinh doanh, kể cả phải hiểu bản chất của thời trang, hiểu giá trị cốt lõi bên trong sản phẩm là gì để từ đó thấu hiểu khách hàng và có chiến lược tiếp cận thị trường. Thời trang không chỉ là sản phẩm, nó là một lối sống, phong cách hoặc thậm chí là một giá trị tinh thần mà khách hàng tìm kiếm. Nếu không xây dựng được bản sắc riêng, thương hiệu dễ bị nhạt nhòa và khó tạo dựng sự yêu thích hay trung thành từ khách hàng. Ta có thể thấy những thương hiệu mạnh toàn cầu như Chanel, Nike, Louis Vuitton không chỉ bán sản phẩm mà còn bán một lối sống, một câu chuyện nên duy trì được sự quan tâm của khách hàng trong nhiều năm. Họ đã xây dựng được một hệ sinh thái thương hiệu bền vững kết hợp giá trị di sản, sự sáng tạo bền vững và tính chiến lược.
Ngược lại, một số doanh nghiệp lại tập trung vào các chiến dịch ngắn hạn nhằm thu lợi nhuận nhanh hoặc chạy theo những xu hướng toàn cầu phổ biến mà thiếu đầu tư vào việc xây dựng câu chuyện thương hiệu và giá trị độc đáo của sản phẩm. Điều này dẫn đến cạnh tranh chủ yếu về giá thay vì khẳng định giá trị thực của sản phẩm.
Bên cạnh đó, có cả những nhà thiết kế nên những bộ đồ rất đẹp nhưng chưa định hình được bản sắc, chưa tìm được mô hình kinh doanh hợp lý, không biết cách làm sao bán ra thị trường, không biết khách hàng của mình đang ở đâu, định giá như thế nào là phù hợp, thậm chí gặp khó khăn trong việc điều phối sản xuất để tối ưu vận hành và chi phí… Ngoài ra, cũng phải kể đến một số nhà thiết kế chọn phân khúc hẹp, lâu lâu thiết kế một bộ sưu tập lộng lẫy cho những ngôi sao trên thảm đỏ. Họ bán bộ trang phục cùng với hình ảnh và sự danh giá của thương hiệu. Tuy nhiên, phần lớn các thương hiệu thành công thường nhờ vào nền tảng kinh doanh bền vững, chiến lược thương hiệu dài hạn chứ không thể dựa vào danh tiếng cá nhân hay những chiến dịch truyền thông nhất thời.
Nhìn chung, thị trường thời trang Việt Nam vẫn còn nhiều những khoảng trống cần lấp đầy để đi những bước đi dài hơn, xa hơn. Đó cũng là lý do vì sao ngành đào tạo kinh doanh thời trang tại Việt Nam ra đời và được quan tâm nhiều trong những năm gần đây.
Lợi thế lớn nhất của ngành thời trang Việt Nam ở tại thị trường trong nước hiện nay, theo nhận định của bà là gì?
Đó là nguồn nhân công trẻ nhưng đã được các tập đoàn may mặc xuất khẩu tận dụng, còn nói về thị trường người tiêu dùng thì người Việt Nam mình dân số trẻ, thích mua hàng online. Có thống kê gần 90% dân số Việt Nam sử dụng điện thoại di động hàng ngày. Nếu kinh doanh thời trang theo mô hình online thì có nhiều lợi thế. Ngỏ thị trường tuy cạnh tranh nhưng cũng khá sôi động, dễ thích nghi với cái mới.
Tầng lớp gen Z ở Việt Nam khá đông, là đối tượng mà từ các tập đoàn thời trang lớn đến các công ty nhỏ lẻ đều cố gắng tiếp cận. Tầng lớp gen Z hầu hết đều có cha mẹ khá giả, thích phong cách riêng, chịu chi tiền cho việc mua sắm. Cùng đó, tầng lớp trung lưu tại Việt Nam có thu nhập khoảng 40-100 triệu đồng mỗi tháng ngày càng gia tăng, họ sẵn sàng chi trả cho du lịch, ăn uống, mua sắm… Việt Nam có lợi thế về thị trường, chỉ là làm sao các nhà thiết kế, những người kinh doanh thời trang biết.
Một điểm đáng chú ý là thị trường thời trang nội địa sở hữu tiềm năng lớn. Khi ngày càng nhiều thương hiệu quốc tế gia nhập Việt Nam, người tiêu dùng trong nước lại càng khao khát những sản phẩm mang đậm bản sắc và sự sáng tạo riêng, phản ánh tinh thần và phong cách độc đáo của thương hiệu nội địa. Đó là hướng đi tiềm năng cho các thương hiệu nội địa.
Theo bà, đâu là giá trị đẹp đẽ nhất của kinh doanh thời trang vượt lên chuyện doanh thu, lợi nhuận?
Giá trị đẹp đẽ nhất của kinh doanh thời trang, theo tôi, không chỉ nằm ở doanh thu hay lợi nhuận mà là sự bền vững và tạo ra giá trị lâu dài. Để xây dựng một thương hiệu Thời trang, cần kiên trì và có chiến lược dài hạn. Việc này đòi hỏi không chỉ tiền bạc mà còn phải rất kiên trì cho câu chuyện 5 năm – 10 năm thì mới có thể khẳng định nó tồn tại được và đi tiếp. Quá trình đó sẽ có nhiều thăng trầm lên xuống nhưng thương hiệu bền vững này sẽ rất khác lối kinh doanh mua đi bán lại. Mua đi bán lại có thể kiếm ngay doanh thu vài trăm triệu mỗi tháng nhưng khó tạo ra giá trị bền vững, còn xây dựng thương hiệu cần phát triển nó mỗi ngày, căn ke giá bán cho hợp lý, điều chỉnh qua lại, tìm thêm thị trường…, trải qua công đoạn 4-5 năm mới định hình được. Khi đã xác định được bản sắc, thương hiệu mới có dấu ấn rõ ràng mình là gì trong tâm trí của khách hàng.
Trong ngành thời trang, định vị thương hiệu là yếu tố cốt lõi quyết định sự thành công của doanh nghiệp. Ví dụ Lacoste định vị là đồ thể thao nhưng thanh lịch, cao cấp dành cho giới nhà giàu thì họ cứ đi theo đúng định hướng đó. Hoặc Uniqlo và Zara, mình sẽ thấy hai nhãn hàng này đều là mô hình bán lẻ thời trang quy mô lớn với giá cả ở phân khúc bình dân-trung cấp nhưng họ có chiến lược định vị khác biệt. Chẳng hạn, Uniqlo định vị là “Basic wear/ Lifewear”, họ không quan trọng lắm về kiểu dáng và lúc ra mắt như một siêu thị quần áo. Tuy vậy, Uniqlo tập trung vào tính ứng dụng và đầu tư một cả một hệ thống R&D để nghiên cứu chất liệu. Từ đó họ làm ra nhiều dòng sản phẩm khác nhau, như dòng đồ thể thao thì vải thông thoáng, hoặc dòng áo khoác mỏng giữ ấm…Zara định vị mình là thương hiệu thời trang nhanh, bắt kịp xu hướng và phong cách hiện đại, với chiến lược kinh doanh tập trung vào việc ra mắt sản phẩm mới thường xuyên, kiểm soát chuỗi cung ứng hiệu quả và tối ưu hóa trải nghiệm mua sắm trực tuyến lẫn tại cửa hàng.
Câu chuyện thương hiệu cần phát triển từng ngày, từ việc định hình bản sắc, đến việc quản lý chuỗi cung ứng và marketing để sản phẩm chạm đến cảm xúc khách hàng. Các thương hiệu lớn như Lacoste, Uniqlo, hay Zara đều có chiến lược riêng biệt, dựa vào định vị rõ ràng và quản lý chặt chẽ. Cuối cùng, kinh doanh thời trang là hành trình xây dựng giá trị thương hiệu không chỉ cho doanh nghiệp, mà còn tạo ra giá trị thặng dư cho xã hội, với mục tiêu tồn tại bền vững và góp phần làm phong phú đời sống của người tiêu dùng. Đó mới là giá trị đẹp đẽ nhất của kinh doanh thời trang.
Bà nghĩ sao nếu có những người muốn đi theo con đường của bà, đóng góp vào nguồn nhân lực tư vấn, giảng dạy kinh doanh thời trang?
Tôi nghĩ rằng đó là một dấu hiệu rất tích cực cho thời trang Việt Nam. Khi đảm nhiệm công việc tại Đại học Hoa Sen và có cơ hội tiếp xúc với một số quản lý cấp cao của các doanh nghiệp Thời trang, tôi nhận ra có nhiều nhân sự đang muốn trao ra kiến thức và kinh nghiệm của mình trong lĩnh vực này, khi mà các doanh nghiệp đã trải qua những thách thức nhất định khi tuyển dụng nhân sự trái ngành.
Một thực tế cho thấy là khoảng 3-4 năm nay không ít trường đại học đều mở ngành kinh doanh thời trang, và có thể trong tương lai gần là quản trị kinh doanh với các ngành sáng tạo.Điều đó sẽ đóng góp nhiều vào sự phát triển của Kinh tế sáng tạo mà Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng phát triển mạnh mẽ về lĩnh vực này so với toàn cầu.Và những người am hiểu thời trang, các chuyên gia thời trang, như chính bản thân tôi, có không ít người muốn truyền đạt kiến thức, kinh nghiệm cho cộng đồng, xây dựng thế hệ làm thời trang chuyên nghiệp cho Việt Nam. Không xuất phát từ nhu cầu kinh tế, mong muốn ấy mang tính cách sứ mệnh nhiều hơn.
THÁI HUỆ